Có 4 phương pháp thông dụng để phối hợp chất nhũ hóa vào nhũ tương:
– Hòa tan vào nước.
– Hòa tan vào dầu.
– Tạo chất nhũ hóa trên bề mặt phân cách pha trong quá trình phối hợp hai pha.
– Phối hợp từng phần chất nhũ hóa vào một trong hai pha.
Phương pháp thứ nhất: Chất nhũ hóa được hòa tan vào nước, sau đó trong quá trình khuấy trộn người ta thêm dần dầu. Thông thường phương pháp này cho nhũ tương D/N. Nếu muốn thu được nhũ tương N/D thì dầu được thêm vào dung dịch nước của chất nhũ hóa đến chừng nào xảy ra hiện tượng đảo pha hoặc thêm dần dung dịch chất nhũ hóa
Phương pháp thứ hai: Ngược lại, chất nhũ hóa được hòa tan trong dầu, nhũ tương N/D sẽ được tạo thành khi thêm dần nước đồng thời sử dụng lực gây phân tán. Nếu muốn thu được nhũ tương D/N thì quá trình thêm nước được tiến hành cho đến chừng nào xảy ra hiện tượng đảo pha hoặc thêm dần từng lượng nhỏ dung dịch dầu của chất nhũ hóa vào nước.
Tuy nhiên giá trị HLB (cân bằng dầu nước) của các chất nhũ hóa không đổi nên thông thường phương pháp thứ nhất cho nhũ tương D/N và phương pháp thứ hai cho nhũ tương kiểu N/D.
Kết quả thực nghiệm chứng tỏ khi áp dụng phương pháp thứ hai thường cho nhũ tương tốt hơn. kích thước các tiểu phân phân tán thường bé hơn và đồng đều hơn.
Phương pháp thứ ba: Tạo chất nhũ hóa trên bề mặt phân cách pha trong quá trình phối hợp hai pha là phương pháp cho các nhũ tương được hình thành, ổn định bằng xà phòng. Xà phòng được tạo ra chủ yếu do các phản ứng hóa học xảy ra trên bề mặt phân cách pha do các acid béo tan trong dầu và kiềm tan trong pha nước. Khi phối hợp hai pha trên bề mặt phân cách pha. xà phòng được tạo ra làm cho nhũ tương ổn định. Tùy thuộc vào bản chất của xà phòng tạo ra mà có thể thu được nhũ tương D/N hoặc N/D.
Trong đa số các trường hợp, phương pháp này cho nhũ tương rất bền vững và kích thước của tiểu phân phân tán thường rất bé.
Thực nghiệm chứng tỏ rằng với nhũ tương dầu olive trong dung dịch nước natri oleat. khi nhũ tương được điều chế bằng cách hòa natri oleat vào pha nước thì chỉ khoảng 48% các giọt phân tán có kích thước <1 micromet và có giọt đạt tới kích thước 12 micromet (bán kính). Trong lúc đó bằng phương pháp tạo thành xà phòng, các tiêu phân có kích thước <1 micromet đạt tới 70% và không có một tiểu phân nào có kích thước đến 8 micromet.
Điều đó có thể giải thích được rằng trong phương pháp tạo thành xà phòng thì chất nhũ hóa tập trung nhiều à hp mặt phân pha rất nhanh, còn các phương pháp hòa tan chất nhũ hóa trong pha dầu hoặc pha nước, chất nhũ hóa muốn tập trung ở bề mặt phân cách pha phải trải qua quá trình khuếch tán có nghĩa là chậm hơn. Cho nên phương pháp thứ ba tạo ra cac tiểu phản phân tán có kích thước bé hơn và ổn định hơn.
Phương pháp thứ tư: Trong ngành dược ít dùng, chì thông dụng trong công nghiệp mỹ phẩm và thực phẩm.