-
Ưu điểm chung
Nhũ tương cho phép phối hợp dễ dàng các dược chất lỏng đồng tan hoặc các dược chất rắn chỉ tan trong một dung môi. Đây là trường hợp được coi là tương(ứng dụng cấu trúc nhũ tương trong kỹ thuật bào chế).Nhũ tương còn tác dụng điều trị vì dưới dạng nhũ tương được chất thường đạt độ phân tán cao và đồng nhất khi sử dụng sẽ có diện tiếp xúc lớn với các tổ chức của cơ thể.
Đối với thuốc uống chế dưới hình thức nhũ tương kiểu D/N không những có thể phối hợp các chất thần nước với các dược chất không tan trong nước (như các loại dầu và nhiều dược chất không phân cực khác) phát huy được tác dụng dược lý của các chất trên, làm chúng dễ dàng được hấp thụ và đồng thời còn giải quyết được vấn đề che dấu mùi vị khó uống, giảm tác dụng gây kích ứng của dược chất đối với niêm-mạc đường tiêu hóa. Ví dụ: Dưới hình thức nhũ tương có thể chế dầu cá. dầu thầu dầu, và nhiều dược chất có mùi vị khó uống như bromoíbrm, creozot,„. dưới dạng thuốc lỏng dễ uống.
Ngoài ra cũng cần chú ý rằng, chính do muốn che giấu mùi vị khó uống và hạn chế tác dụng gây kích ứng đối với niêm mạc đường tiêu hóa mà người ta đã chế các dược chất dễ tan trong nước nhưng có các nhược điểm nói trên dưới dạng nhũ tương kép N/D/N (pha phân tán là một nhũ tương N/D).
Đối .với thuốc tiêm dùng nhũ tương kiểu D/N có thể chê được các dược chất không tan hoặc rất ít tan trong nước dưới dạng thuốc tiêm tĩnh mạch. Các nhũ tương này mang tính chất của dạng thuốc nước nên không gây tắc mạch như các thuốc tiêm dầu và phát huy được tác dụng dược lý của dược chất. Ví dụ: Người ta đã chế nhiều loại vitamin tan trong dầu và một số chất béo có năng lượng nhằm tăng lực nhanh chóng cho các bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng.
Thuốc mỡ, thuốc xoa chế dưới dạng nhũ tương không những có thể dễ dàng phối hợp thành hỗn hợp đồng đều nhiều loại dược chất khác nhau với các tá dược cần thiết để thu được những chế phẩm có thể chất mềm mịn, có tác dụng dịu đối với da, niêm mạc, ít gây nhờn,da và quần áo, mà đồng thời còn có thể tùy theo yêu cầu điều trị làm cho thuốc tác dụng nông trên bề mặt da và niêm mạc hoặc tác dụng sâu vào các tổ chức nằm trong và dưới da, bằng cách lựa chọn chế dưới một kiểu nhũ tương thích hợp D/N hoặc N/D.
Đối với thuốc đạn. trứng chế dưới dạng nhũ tương ngoài việc có thể dễ dàng phối hợp đồng đều nhiều loại dược chất khác nhau với các tá dược cần thiết để làm thành viên có độ bền cơ học đảm bảo, còn làm cho thuốc viên dễ tan rã, đảm bảo sự giải phóng, hấp thu hoạt chất tốt khi thuốc được đặt vào các hốc của cơ thể. Riêng đối với thuốc có thể làm cho thuốc chỉ tác dụng tại chỗ đặt hoặc gây tác dụng nhanh chóng trên toàn thân bằng cách chế dưới một kiểu nhũ tương thích hợp D/N hoặc N/D.
-
Nhược điểm
Nhũ tương là những hệ phân tán cơ học, không đồng thể, nên không bền và vì vậy. để điều chế đòi hỏi phải có một số phương tiện nhất định (chất nhũ hóa và các dụng cụ, thiết bị để tạo lực gây phân tán), đồng thời cũng đòi hỏi người pha chế phải nắm vững kỹ thuật