Kéo dài thời gian lưu thuốc ở vùng trước giác mạc

Nếu giọt thuốc nhỏ vào mắt được lưu giữ lâu ở vùng trước giác mạc, cũng có nghĩa là được chất được tiếp xúc với giác mạc dài hơn, khả năng được chất được hấp thu sẽ lớn hơn, sinh khả dụng sẽ cao hơn. Có thể làm tăng thời gian lưu của thuốc bằng cách:

thuốc nhỏ mắt

Thêm vào thành phần thuốc nhỏ mắt các polyme tan trong nước để tăng độ nhớt của thuốc nhỏ mắt.

Độ nhớt của thuốc nhỏ mắt tăng lên sẽ cản trở sự rút dịch thuốc đã nhỏ qua ống mũi – lệ, làm chậm tốc độ rút thuốc khỏi mắt, đồng thời thuốc cũng khó bị pha loãng hơn bởi dịch nước mắt. Độ nhớt tối ưu của thuốc nhỏ mắt khoảng 12 -15 centipoise (cps). Nếu thuốc nhỏ mắt có độ nhớt cao quá mắt sẽ phản xạ tăng tiết nước mắt, tăng chớp mắt để thiết lập lại độ nhớt bình thường của dịch nước mắt và sẽ gây tác dụng ngược lại. Chrai và Robison nghiên cứu trên mắt thỏ đã cho thấy hằng số tốc độ rút thuốc giảm đi 3 lần khi độ nhớt của dung dịch trong khoảng từ 1- 12,5 cps và giảm đi khoảng 3 lần nữa khi độ nhớt của dung dịch trong khoảng 12,5 – 100 cps.Cộng sự cũng cho thấy nồng độ neomycin sulíat cần thiết để đề phòng nhiễm khuẩn giác mạc trên mắt thỏ thí nghiệm giảm đi 2 lần (từ 0,84 – 1,27 mg/ml xuống còn 0,40 – 0,62 mg/ml) khi dung dịch thuốc có thêm 0,5% hydroxypropylmethyl cellulose. Lynn và Jones nghiên cứu tốc độ rút dịch qua ống mũi – lệ ở mắt người bằng cách nhỏ vào mắt dung dịch nhuộm màu có thêm methylcellulose với nồng độ từ 0,25 đến 2,5% thu được kết quả như ghi ở bảng 3.15.

Bảng 3.15. Ảnh hưởng của độ nhớt đến thời gian tiếp xúc của thuốc với niêm mạc mắt

Nồng độ methylcellulose (%) Thời gian xuất hiện chất màu qua ống mũi – lệ (giây)
0,0 60
0,25 90
0.5 140
1.0 210
2.5 255

Dược chất trong hỗn dịch thuốc nhỏ mắt được phân tán trong môi trường phân tán dưới dạng các tiểu phân có kích thước < 50 |im. Do vậy, khi nhỏ vào mắt, các tiểu phân được chất khó bị rửa trôi bởi quá trình động học của nước mắt, hơn nữa dược chất sẽ được hấp thu qua giác mạc hoặc kết mạc từ phần dung dịch bão hòa bao quanh các tiểu phân dược chất rắn, nên các tiểu phân dược chất trước vùng giác mạc có tác dụng giống như một “kho” dự trữ và bổ sung dung dịch bão hòa để quá trình khuếch tán xảy ra liên tục. Chính vì thế hỗn dịch nhỏ mắt thường có sinh khả dụng cao hơn và tác dụng kéo dài hơn so với dung dịch thuốc nhỏ mắt có cùng nồng độ dược chất. Tất nhiên tốc độ hòa tan dược chất từ các tiểu phân vào dịch nước mắt nhất thiết phải nhanh hơn tốc độ thải trừ được chất từ mắt. Đặc tính trên đây của hỗn dịch thuốc nhỏ mắt có thể vận dụng khi được chất có cả dạng dễ tan và dạng ít tan trong nước; chọn dạng ít tan và pha thuốc dưới dạng hỗn dịch. Ví dụ dùng dexamethason dạng alcol ít tan trong nước để pha thuốc nhỏ mắt hỗn dịch thay vì dùng dexamethason natri phosphat để pha dung dịch thuốc nhỏ mắt này.Bào chế thuốc dưới dạng hỗn dịch nhỏ mắt

dexamethason

 

Giới thiệu Dược sĩ Lưu Anh 398 bài viết
Dược sĩ Lưu Anh tốt nghiệp trường Đại học Dược Hà Nội hệ chính quy. Trường Đại học Dược Hà Nội là ngôi trường đào tạo Dược sĩ đầu tiên tại Việt Nam với bề dày kinh nghiệm và uy tín hàng đầu.